GDP bình quân (PPP) Việt Nam từng chưa bằng 1/2 Philippines, 1/3 Indonesia, mất 21 năm vượt Philippines, còn Indonesia thì sao?

Minh Tiến |

Năm 1991, GDP bình quân đầu người (PPP) của Việt Nam đạt 1236,5 USD, thấp hơn Philippines và Indonesia.

Theo dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 1991, GDP bình quân đầu người (PPP) của Việt Nam thấp hơn GDP bình quân (PPP) của Philippines (2705,7 USD) và Indonesia (3828,19 USD). Theo đó, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam chưa bằng 1/2 Philippines và 1/3 Indonesia.

Giai đoạn 1991 - 2011, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam liên tục thấp hơn Philippines và Indonesia. Tuy nhiên, đến năm 2012, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam đã vượt qua Philippines. Năm 2012, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam đạt khoảng 6.400 USD, còn Philippines đạt khoảng 6360 USD. Theo đó, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam đã chính thức vượt qua Philippines sau 21 năm kể từ năm 1991.

Đến năm 2023, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam vẫn xếp trên Philippines nhưng vẫn thấp hơn Indonesia. Cụ thể, GDP bình quân (PPP) Việt Nam đạt khoảng 14.342,3 USD, còn Philippines đạt khoảng 11.339 USD và Indonesia đạt khoảng 15.828 USD.

Tuy nhiên, theo dự báo của IMF, đến năm 2029, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam sẽ tiến sát Indonesia. Năm 2029, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 22.410 USD, còn của Indonesia đạt khoảng 22.706 USD. Theo đó, tuy GDP bình quân (PPP) của Việt Nam từng chưa bằng 1/3 Indonesia và hiện chưa vượt nhưng sẽ tiến sát nút vào năm 2029.

GDP bình quân (PPP) Việt Nam từng chưa bằng 1/2 Philippines, 1/3 Indonesia, mất 21 năm vượt Philippines, còn Indonesia thì sao?- Ảnh 1.

GDP bình quân (PPP) các nước khu vực Đông Nam Á giai đoạn 1991 -2023 và dự báo giai đoạn 2024 - 2029. Nguồn: IMF.

Xét trong toàn bộ các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt trong giai đoạn 1991 - 2023.

Năm 2023, GDP bình quân (PPP) Việt Nam xếp thứ 6/11 trong khu vực Đông Nam Á. Theo đó, GDP bình quân (PPP) của Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan và Indonesia vẫn xếp trên Việt Nam. GDP bình quân (PPP) của Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia đang gấp lần lượt là 9 lần; 5 lần; 2,6 lần; 1,6 lần và 1,1 lần so với GDP bình quân (PPP) của Việt Nam.

Sau 32 năm nỗ lực phát triển, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam đã tăng từ 1236,5 USD năm 1991 lên 14.342,3 USD năm 2023.

Trong giai đoạn 1991 - 2023, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam có mức tăng lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á (gấp 11,6 lần). Các quốc gia khác đều có sự cải thiện nhưng chậm hơn như: Campuchia (gấp 9,6 lần), Lào (gấp 8,9 lần), Myanmar (gấp hơn 7,74 lần), Singapore (gấp 5,02 lần), Malaysia (gấp 4,84 lần), Thái Lan (gấp 4,73 lần), Đông Timor (gấp 4,5 lần), Philippines (gấp 4,2 lần), Indonesia (gấp 4,13 lần) và Brunei (gấp 1,25 lần).

Theo Nghị quyết của trung ương yêu cầu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, trong đó là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao.

Theo Nghị quyết, Chính phủ đặt mục tiêu, phấn đấu đạt các mục tiêu, chỉ tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm của Quy hoạch tổng thể quốc gia đến năm 2030; trong đó, về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 - 2030.

Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%.

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ 3 - 5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững và gắn với đô thị hoá; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Về phát triển kết cấu hạ tầng, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, bao gồm các trục giao thông đường bộ Bắc - Nam (đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số đoạn của đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường ven biển), các trục giao thông Đông - Tây quan trọng, phấn đấu có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc.


Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại